Dịch học
Lúc đầu Bát quái chỉ dùng để bói toán, sau phát triển thành hệ thống Dịch, thành một nền triết học thâm thúy khó hiểu. Với 8 quẻ thì chưa diễn giải được, nên Văn Vương nhà Chu (hoặc chính Phục Hi – tùy thuyết) chồng các quẻ lên một lần nữa, 8 nhân 8 thành 64 quẻ chồng (trùng quái), mỗi quẻ 6 vạch, tổng cộng 384 hào. Đó là cơ sở cho Dịch học.
Chẳng hạn: chồng quẻ Càn lên Càn sẽ là Thuần Càn.
Chồng Cấn lên Càn được quẻ Đại Súc
Chồng Khôn lên Càn được quẻ Thái
Đi sâu vào nội dung từng quẻ có cả một bộ Kinh Dịch đồ sộ. Xin chỉ viết một số vấn đề liên quan đến thế giới quan qua những tư tưởng này.
Theo Kinh Dịch, Phục Hi làm ra Bát quái, hơn 1 nghìn năm sau, Văn vương nhà Chu chồng quẻ và viết lời giải thích cho từng quẻ, tổng cộng 64 câu, gọi là Thoán Từ, nhưng ý nghĩa quá thâm sâu. Con của Văn vương là Chu Công giải thích 384 hào, gọi là Hào từ. Thoán từ và Hào từ là kinh điển, về sau còn có Thập dực và Thoán truyện nói rõ hơn nữa ý nghĩa. Thập dực có thuyết nói là của Khổng tử, vì vậy khi bói Kinh Dịch thì cúng 4 vị: Phục Hi, Văn vương, Chu Công, Khổng tử. Nhưng có lẽ Khổng tử chỉ nghiên cứu chứ không viết gì vào Kinh dịch, Thập dực do đời sau viết ra.
Thế giới quan trong Kinh dịch là nhị phân. Từ Âm Dương (2) chồng thành Tứ tượng (4) chồng tiếp thành Bát quái (8), chồng nữa thành Lục thập tứ quái (64). Thậm chí có người như Tiêu Diên Thọ chồng tiếp thành 4096 quẻ.
Việc dùng các vạch liền và đứt rất tương đồng với hệ nhị phân 0 – 1 ngày nay, đặc biệt hệ nhị phân trong tin học. Trong tin học, 0 là mạch đứt, 1 là mạch liền, giống Âm và dương. Do đó có thể thấy các quẻ đơn cũng là các số đếm, bắt đầu từ 0 cho đến 7, tương tự, 64 quẻ chồng là từ 0 đến 63.
Với hệ đếm nhị phân, ngày nay ta có thể mô tả được thông tin về mọi sự vật hiện tượng. Một bức tranh số hóa cũng là chuỗi 0 – 1, một thiên thể bất kỳ cũng hình thành từ các yếu tố Có và Không các tính chất. Do đó có thể nói có thể dùng vạch Âm Dương phản ánh được mọi sự vật.
Người Trung Hoa cũng dùng các trùng quái để mô tả về các tháng, hay là vị trí của trái đất trên quỹ đạo. Tháng giêng là khi Âm dương cân bằng, sang tháng hai Dương thêm 1 vạch, khí ấm tăng thêm một mức, sang tháng ba Dương thêm 1 vạch, cứ như vậy, khí Dương đầy nhất vào tháng tư, rồi khí Âm xuất hiện vào tháng năm, tăng dần cho đến tháng mười là cực đại, rồi khí Dương lại tràn lên. Đối chiếu Âm dương lịch, thì Tháng 4 âm lịch ứng với tiết Lập hạ, và tháng mười ứng với Lập đông.
Chu trình 12 giai đoạn trên không chỉ mang ý nghĩa trong các tháng, mà còn mô tả sự vận động thành rồi hủy, hủy rồi thành, thêm vào rồi bớt đi, vận động mãi không ngừng. Các hiện tượng trong tự nhiên phải chăng đều vận động theo quá trình đó.
Thái Cực
Âm Dương Bát quái 64 quẻ là tác phẩm từ thượng cổ đến thời Chu, nên còn gọi là Chu Dịch.
Theo Chu Dịch này, nguồn gốc vạn vật, Vũ trụ là Dương Âm, Càn Khôn. Càn vận động, Khôn chứa đựng, như Cha và Mẹ, từ đó mới có mọi thứ.
Âm Dương là nguồn gốc vạn vật, nên có thể nói rằng nguồn gốc của Vũ trụ là Nhị nguyên. Bản thân hai yếu tố nguyên lý đó đã là khởi thủy của mọi vật chất và biến chuyển. Nhưng đến thời Chiến Quốc hoặc Hán, quan điểm nhị nguyên đã chuyển thành Nhất nguyên khi có khái niệm Thái Cực. Trong Hệ từ thượng truyện viết “Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ tượng sinh Bát quái”.
Thái Cực nghĩa là hơn hết tất thảy, trước hết tất thảy, trong lòng nó chứa đựng tất cả những nguồn gốc cho sự vận động, trong nó có cả Âm lẫn Dương, nhưng là Âm Dương chưa tách biệt, mà vẫn còn nhất thể. Thái Cực là cái nguồn vô tận khởi thủy, là khí tiên thiên, linh căn bất sinh bất diệt chứa đựng Âm Dương.
Hình vẽ mô tả Thái Cực là một vòng tròn gồm hai nửa, đen là Âm, trắng là Dương kết hợp chặt chẽ với nhau để hình thành nên một tổng thể. Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm, Dương thịnh thì Âm suy, Âm thịnh Dương suy. Nhưng trong khi thịnh nhất của Dương thì Âm đã xuất hiện, và ngược lại. Âm thăng còn Dương giáng.
Có thể nói đây là hình ảnh súc tích nhất của Văn hóa phương Đông.
Kết hợp với Bát quái, có Thái Cực đồ.
Ở đây là Thái cực đồ Tiên thiên, vì sử dụng Tiên thiên bát quái.
Tư tưởng về Vũ trụ đã hoàn chỉnh. Vũ trụ bắt nguồn từ Thái Cực.
Vũ trụ vận hành theo cơ số 2.
Thái Cực – Lưỡng Nghi – Tứ Tượng – Bát Quái – Các quẻ – Biến hóa vô cùng.
1 (= 20) -> 2 (= 21) -> 4 ( = 22) -> 8 (= 23) -> 64 (= 26) -> …
Việc cố gán các tư tưởng Đông Tây với nhau là điều không hợp lý. Tuy nhiên khi so sánh đối chiếu thuyết này với Vật lý học hiện đại ngày nay thì có những tương đồng nhất định.
Theo thuyết của Vật lý hiện đại, Vũ trụ bắt nguồn từ Big Bang, Vụ nổ Lớn. Tại thời điểm Big Bang, chỉ trong một chất điểm kích thước vô cùng nhỏ, trong một khoảng thời gian vô cùng ngắn, với không gian bị uốn cong đến vô cùng, đã chứa đựng vật chất cho tất cả Vũ trụ này. Trong đó có các hạt, phản hạt, sóng, lực hút đẩy,…
Đó là Thái Cực.
Khi Thái Cực phát sinh, những yếu tố mang tính đối lập, điện tích âm và dương, hạt và phản hạt, sóng và phản sóng, vật chất và phản vật chất, lực hút, lực đẩy,… được giải phóng, tương ứng với Lưỡng Nghi.
Vũ trụ giãn nở với một tốc độ nhanh, giai đoạn Thái dương bùng nổ, tạo ra các thiên thể.
Sự giãn nở chậm dần, là giai đoạn Thiếu dương, đến một cực đại
Rồi sẽ dần co lại, là Thiếu âm, cho đến thời điểm co lại cực đại, là Thái Âm.
Hoặc như xét chu kỳ sống của một ngôi sao: Lúc đầu ngôi sao hình thành từ đám bụi khí co lại, tức là Thái Cực, và rồi bùng nổ, phát xạ dữ dội, bắt đầu giai đoạn Thái dương, để rồi nguội dần, qua các giai đoạn thiếu dương, thiếu âm, cuối cùng sụp đổ. Và theo thuyết của Einstein và Hawking thì nó sẽ thành một Lỗ đen, là giai đoạn Thái Âm, để rồi ta không còn nhận thức về nó được nữa vì không còn thông tin nào từ đó thoát ra.
Một con người cũng như vậy. Thời điểm khi thụ thai, con người chỉ là 1 tế bào duy nhất, trong đó có yếu tố Dương của cha và Âm của mẹ, đó là Thái cực. Chỉ khi có được cả Lưỡng nghi đó, tế bào mới là một cơ thể sống hoàn chỉnh. Tế bào tăng theo nguyên tắc nhân đôi, nguyên tắc của Dịch. Trong mỗi cấu tạo nhỏ nhất của cơ thể, đều gồm yếu tố Âm dương. Trong tổng thể thì cá thể đó phải mang thuộc tính Dương hoặc Âm, nam hoặc nữ cụ thể, nhưng bản chất đều có cả hai. Yếu tố nào nổi trội hơn sẽ cho tổng thể thuộc tính nổi trội đó. Khi thay đổi giới tính, là sự thay đổi trạng thái đang có sang trạng thái đối lập.
Hình ảnh của Thái Cực đồ rất giống với cách để đo các Tiết khí bằng phương pháp đo bóng mặt trời.
Khi quan sát bóng mặt trời tạo bởi một chiếc cột thẳng đứng tạo ra trên mặt đất, cùng với quan sát đuôi sao Bắc Đẩu, họ phân chia vòng năm thành 24 cung ứng với 24 tiết trong năm, với 4 vị trí quan trọng là Xuân phân, Thu phân, Hạ chí, Đông chí. Với 6 vòng tròn đồng tâm tại chân cột, và đo bóng hàng ngày, bóng ngắn nhất vào Hạ Chí, dài nhất vào Đông Chí, nối các điểm lại, sẽ có được đồ hình bóng mặt trời, có thể đây là nguồn gốc cho Thái Cực đồ, với Âm là phần từ Hạ chí đến Đông chí.
Vô Cực
Thái Cực dường như là cội nguồn đầy đủ cho Vũ trụ quan. Nhưng các nhà Dịch học không dừng lại ở đó. Khi đối chiếu với Vũ trụ quan Đạo giáo, với câu “Đạo sinh Một, Một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinh vạn vật” của Lão tử, họ cảm thấy thiếu một cái gì đó.
Nếu Hai là Lưỡng nghi, Một là Thái Cực, thì Đạo phải là cái có trước cả Thái Cực.
Suy nghĩ về cái có trước khi có Thái Cực, trước khi có Vật chất đã khiến Chu Đôn Di đời Tống (TK 13) đề xuất thuyết: Vô Cực, hay Hư Vô. Thuyết này được chấp nhận cho đến nay.
Vô Cực đồ mô tả quá trình chuyển dịch của Vũ trụ. Từ Hư Vô – Vô Cực, không có gì, đã có tượng hình của Thái Cực – hình tròn. Thái Cực đã có trong lòng nó Lưỡng Nghi. Lưỡng nghi phân chia, chồng lên nhau để thành Tứ tượng. Trong đồ hình Tứ tượng thì có đủ cả: Lưỡng nghi ở tầng dưới, Tứ tượng tầng thứ 2, và thêm tầng 3 thì đủ Bát quái.
Chẳng hạn 3 bậc đen cả là Càn; 2 bậc đầu đen, bậc 3 trắng là Đoài; bậc đầu đen, bậc hai trắng, bậc 3 đen là Ly,…, và cuối cùng Bát quái tách biệt trong đồ hình cuối.
Thảo luận về Vô Cực hay Hư Vô là một chủ đề có thể gây nhiều tranh cãi.
Vô Cực theo Chu Đôn Di – cũng như các Đạo gia, hiểu là cái nguồn mang tính tĩnh, là cái chứa đựng nhưng chưa phát lộ, khởi thủy tiềm phục.
Chẳng hạn với một ngôi sao, trước khi nó thực sự hình thành thì nó vốn là các tinh vân. Tinh vân chưa phải là sao, mà chỉ chứa đựng cái sẽ trở thành sao, là cái nguồn mà không phải vật. Chỉ khi đám bụi khí đó tụ lại, và dưới tác động của các lực, các sóng, nổ bùng thành một tân tinh, thì thời điểm đó mới là Thái Cực.
Hoặc như một con người, trước khi Tinh cha gặp Noãn mẹ, thì cấu thành sự sống vốn đã có sẵn, nhưng vẫn chưa thể là vật. Chỉ khi có sự thụ tinh thì những gì tiềm phục trong nội tại Âm Dương mới giao hòa để phát lộ thành Thái Cực là tế bào khởi thủy duy nhất.
Thậm chí có thể hiểu Vô Cực là không có cả các nguồn, không có những cái thường có trong bất kỳ vật nào, trong mọi nhận thức, tư tưởng. Từ cái nguồn Vô đó mới sinh Có là Thái Cực. Vô Cực là cảnh giới nguyên thủy mà khi đã là vật, đã thành, thì không thể đạt đến hoặc quay lại. Trong Vô Cực có gì? Không phải là không có, mà là không thể phản ánh được, cũng như “trước” BigBang có gì, hoặc sau Lỗ đen có gì, thì không thể phản ánh, nhận thức được, bởi lúc đó Thời gian cũng không còn hoặc bị triệt tiêu.
Cùng với việc không chấp nhận Đấng sáng thế, mà coi tự nhiên tự vận động, Vũ trụ quan phương Đông mang tính khoa học và khái quát cao. Tự nhiên là cao nhất, khái niệm Trời là cái nguồn uyên nguyên vô tận của các quy luật. Các vị thánh thần huyền thoại như Phục Hi cũng chỉ tìm cách phản ánh và hội nhập vào cái nguồn đó, hiểu được nó và sử dụng nó như là con đường sống cho mình chứ không sáng tạo thêm được điều gì cho tự nhiên. Hà đồ Lạc thư do Trời gửi đến, nhưng Trời không phải là một người cụ thể nào, mà là tự nhiên vô cùng vô tận, tuy có khởi đầu nhưng biến đổi không ngừng.
Âm Dương Bát quái kết hợp với Ngũ hành: Trên: Hỏa, phương Nam; Dưới: Thủy, phương Bắc; Trái: Mộc, phương Đông; Phải: Kim, phương Tây; Giữa: Thổ, Trung ương
Như vậy, trải qua hàng ngàn năm, thuyết Âm Dương đã hình thành và phát triển để hoàn thiện như ngày nay. Thậm chí ngay đến bây giờ vẫn luôn có những học giả tìm hiểu ý nghĩa của nó. Đó là một nguồn sâu rộng để tìm hiểu về Thế giới và con người. Vũ trụ quan trong Dịch học phản ánh khá đầy đủ và khoa học hiện thực mà bây giờ khoa học hiện đại vẫn đang tìm hiểu, tất nhiên là ở một tầm khái quát chứ không cụ thể rõ ràng.
Thuyết Âm Dương không đứng riêng rẽ một mình. Trong quá trình phát triển, nó đã được kết hợp với các Ngũ hành, Can Chi để tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, làm nền tảng cho tư duy phương Đông.
(*) Ma phương: Magic square: hình gồm các ô vuông có số với những quy tắc đặc biệt, chẳng hạn tổng theo tất cả các hàng, các cột, theo đường chéo đều bằng nhau.
(*) Lá cờ của Việt Nam thời chính phủ Trần Trọng Kim (1940) có hình quẻ Ly gồm 1 vạch đứt ở giữa 2 vạch liền, là ngụ ý ở phương Nam.
Big Bang
Âm Dương: Yin Yang
Bát Quái: Ba Gua, Eight Trigrams,
Tiên thiên: Earlier Heaven, Primal Arrangement –
Hậu thiên: Ater Heaven, Inner World Arrangement
Thái Cực Tai Ch’i
Dịch Kinh I – Ching
Xuân phân Vernal Equinox
Thu phân Autumnal Equinox
Hạ chí Summer Solstice
Đông chí Winter Solstice
Hà Đồ Ha Tu
Lạc Thư Lou Shu
Phục Hi Fuxi
Thần Nông Shennong
Hoàng Đế Huangdi
Đạo giáo Taoism
Phong Thủy Fengshui
Thienvanvietnam.com – Tác giả: Bùi Dương Hải